Mèo trong tục ngữ

Theo các nhà biên khảo thì tục ngữ là một kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết về vũ trụ và nhân sinh trong dân gian. Giúp ta có một tri thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời”…

Mèo là con vật nuôi thân thiện trong nhà và cũng là con vật được dân gian hình tượng hóa nhiều vào ca dao, tục ngữ. Như:

Ăn nhạt mới biết thương tới mèo: Ngụ ý người ta có lâm cảnh khổ thì mới biết thương người không may mắn bằng mình.

Ăn nhỏ nhẹ như mèo: là ăn từ tốn, từng miếng một. Phụ nữ ăn nhỏ nhẹ được khen là có nết. Nhưng đàn ông ăn như mèo thì bị coi người thiếu sinh khí, sức mạnh. (Nam thực như hổ, nữ thực như miêu)

Buộc cổ mèo, treo cổ chó: Nói kẻ hà tiện, có tính bủn xỉn.

Chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào: Nghĩa là mỗi người đều có sở trường riêng của người ấy, chưa chắc ai đã hơn ai.

Chó giữ nhà, mèo bắt chuột: ý nói ai cũng có nghề nghiệp chuyên môn của mình, đừng tị nạnh nhau và cũng đừng can thiệp vào việc của nhau.

Chó chê mèo lắm lông: Phê phán kẻ không thấy lỗi mình, mà chỉ thấy lỗi người.

Chuột gặm chân mèo: Làm một việc liều lĩnh, nguy hiểm.

Chửi chó mắng mèo: Tỏ vẻ tức giận người khác bằng cách chửi mắng vu vơ.

Đá mèo, quèo chó: Bực mình vì sự việc khác nhưng lại trút bực tức sang những người xung quanh yếu thế hơn mình. (Tương tợ như: giận cá chém thớt)

Giấu như mèo giấu cứt: Chê những người có ý giấu giếm những điều không cần thiết.

Hùm mất hươu hơn mèo mất thịt: Cái mất của người có địa vị cao thì càng đau khổ hơn người ở địa vị thấp.

Im ỉm như mèo ăn vụng: ám chỉ những kẻ cố tình che giấu tội lỗi bằng cách im lặng tuyệt đối, hoặc những kẻ hễ thấy lợi là giấu giếm hưởng một mình, không cho ai hay biết.

Không có chó bắt mèo ăn cứt: Phải dùng một người trong một việc không đúng với sở trường, khả năng của người đó.

Lèo nhèo như mèo vật đống rơm: Nói dai, nói đi nói lại để nài xin.

Lôi thôi như mèo sổ chuột: Chỉ sự thẫn thờ, ngơ ngác của người đang tiếc rẻ, vì trót lầm lỡ một dịp may nào đó.

Mèo cào không xẻ vách vôi: Ngụ ý khuyên trước khi làm việc gì phải tự lượng sức mình, cố gắng cho lắm cũng vô ích.

Mèo con bắt chuột cống: Chỉ người trẻ tuổi tài cao, làm được việc mà nhiều người lớn làm không nổi.

Mèo già hóa cáo: Ngụ ý người già sống lâu nên đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu. Cũng còn nghĩa là người mới đầu làm việc gì thì rụt rè nhút nhát, nhưng ở lâu năm thì tinh ma ranh mãnh.

Mèo già lại thua gan chuột nhắt: ý nói người lớn tuổi thì không còn bạo gan như kẻ thanh niên.

Mèo hoang lại gặp chó hoang/ Anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai: Chỉ những kẻ vô lại mới kết bè tựu đảng với nhau.

Mèo khen mèo dài đuôi: Tự đề cao, khen ngợi mình.

Mèo làm ai nỡ cắt tai/ Gái kia chồng rẫy khoe tài làm chi?: Chỉ những người đàn bà bị chồng chê, chồng bỏ vì hư đốn, phải về nhà cha mẹ ruột, thay vì chỉ còn biết âm thầm sống đến già, không mong được ai cưới hỏi nữa, nhưng lại khoa trương nọ kia để củng cố danh giá mình.

Mèo lành chẳng ở mả/ Ả lành chẳng ở hàng cơm: Chê người đàn bà ngày hai bữa cứ ăn cơm hàng cháo chợ, không lo chợ búa cơm nước cho gia đình, đó là tính xấu, tính hư.

Mèo mả gà đồng: Ám chỉ những cuộc tình vụng trộm, buông tuồng, hạng người vô lại, trai trộm cướp, gái lăng loàn khiến ai cũng khinh ghét.

Mèo mù móc cống: Chỉ những kẻ không còn phương kế sinh nhai.

Mèo mù vớ cá rán: Vận may bất ngờ đến với kẻ nghèo hèn đang túng quẫn.

Mèo bé bắt chuột con: Khuyên hãy biết liệu sức mình mà đảm đương công việc. Tài hèn sức mọn mà ham đảm trách việc lớn thì chỉ chuốc lấy thất bại thôi.

Mèo tha miếng thịt xôn xao/ Hùm tha con lợn thì nào thấy chi: Nghĩa bóng nói đến kẻ có quyền hành làm việc sai trái thì không sao, trong khi kẻ dưới bị trừng phạt nặng.

Mèo vật đụn rơm: Chỉ kẻ tài thô trí thiển, làm việc không có ý nghĩa.

Mỡ để miệng mèo: Ý nói đặt trước mặt người ta một thứ gì mà người ta đang mong muốn, thèm khát, đó là hành động sơ sểnh, dễ bị tước đoạt.

Như mèo thấy mỡ: Giễu người tỏ vẻ hăm hở trước thứ gì mình thèm muốn.

Tiu nghỉu như mèo cắt tai: Ý nói vì thất vọng nên buồn rầu lắm, không muốn nói năng, không muốn làm gì.

Rình như mèo rình chuột: Sự kiên nhẫn, siêng năng cho đến khi được việc mới thôi.

Theo: (Minh thư – Báo Thời đại)

Trong ca dao, ai là ai? Ai là một đại từ không xác định, thường được dùng trong các câu nghi vấn. Nhưng trong một thứ tiếng tinh tế như tiếng Việt, không phải cứ ai xuất hiện ở câu nào thì câu đó trở thành câu nghi vấn. Trong ca dao, từ ngữ lạ lùng này còn có một dạng biểu hiện khác theo phép tu từ học.

Loài mèo duyên dáng và hoang dã Mèo rừng hoang dã và mèo nhà làm dáng bên những bông hoa tươi thắm hay những phút lãng mạn, suy tư bên hoa… là những hình ảnh tuyệt vời của loài mèo đầu năm Tân Mão.

Chú mèo đã sống một triệu kiếp (truyện ngắn)

Bài liên quan

Trong ca dao, ai là ai?

Ai là một đại từ không xác định, thường được dùng trong các câu nghi vấn. Nhưng trong một thứ tiếng tinh tế như tiếng Việt, không phải cứ ai xuất hiện ở câu nào thì câu đó trở thành câu nghi vấn. Trong ca dao, từ ngữ lạ lùng này còn có một dạng biểu hiện khác theo phép tu từ học.

Cùng chuyên mục