Công nghiệp phần mềm VN: 10 năm thăng trầm

10 năm qua cũng là 10 năm của những thăng trầm mà doanh nghiệp phần mềm Việt Nam gánh chịu: khởi nghiệp vất vả, luôn biến động về quy mô nhân sự, khó khăn về chuyển đổi thị trường, định hình sản phẩm dịch vụ và vẫn chưa có được những phần mềm ứng dụng ngành đặc thù.

Khởi động với một loạt chủ trương và chính sách hỗ trợ, ít ai ngờ ngành phần mềm VN lại vẫn chủ yếu “ra biển lớn” được là nhờ những thương vụ mua bán – sáp nhập và sự xuất hiện của những thương hiệu quốc tế lớn tại VN do nhiều ưu đãi đầu tư hấp dẫn. (Nhóm thiết kế phần mềm của Công ty TMA ở công viên phần mềm Quang Trung TP.HCM – Ảnh: T.T.D)

Từ góc nhìn M&A

Lĩnh vực gia công phần mềm tại Việt Nam – vốn chịu nhiều biến động của nền công nghệ thông tin (CNTT) toàn cầu – những năm gần đây sôi động với các thương vụ M&A (mua bán – sáp nhập). Thông thường, đây là bước khởi đầu của các tập đoàn CNTT lớn khi cần mở trung tâm mới ở những quốc gia có tiềm năng về nguồn nhân lực để phục vụ chuỗi dịch vụ toàn cầu.

Năm 2009, Tập đoàn Mỹ CSC đã thâu tóm FCG, một tập đoàn khác của Mỹ có đội ngũ khoảng 700 kỹ sư và 15 năm hoạt động tại Việt Nam. (Trước đó FCG đã mua PSV – một công ty mà nòng cốt là một nhóm sinh viên ĐH Bách khoa TP.HCM, sau được một nhà đầu tư Mỹ rót vốn). Tập đoàn CNTT lớn nhất châu Âu CapGemini mua lại công ty 100% vốn của Pháp – IACP. Harvey Nash của Anh thâu tóm SilkRoad Systems, NEC Solutions mua Công ty Sáng Tạo, InfoNam của Ấn Độ mua PSD (Mỹ)… Hàng loạt tên tuổi khác như IBM, Aricent, các hãng thiết kế vi mạch như Renesas, Applied Micro, Texas Instrument, Synopsys… mở trung tâm gia công tại Việt Nam.

Mới nhất là Tập đoàn HP mua đội ngũ nhân sự của một công ty nước ngoài khác đã có kinh nghiệm tại Việt Nam. Nhờ thương vụ này, HP đã nhanh chóng thiết lập được đội ngũ lõi (core team) đến 50 người cho kế hoạch đạt đến 4.000 nhân viên vào cuối năm 2014.

Chính nhờ các vụ M&A và thương hiệu của các tập đoàn lớn “đổ bộ” thời gian qua, thế giới mới nhìn về Việt Nam như một nơi có khả năng phát triển các dịch vụ CNTT. Cho dù nhiều hãng chỉ lập ra trung tâm mới với quy mô nhỏ như bước chuẩn bị đón đầu thị trường khi cần thiết và mục đích các vụ M&A là nhanh chóng sở hữu đội ngũ có kinh nghiệm và kỹ năng, thay vì hợp tác dự án.

Đó chính là nỗi lo ngại đang dấy lên của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, ngoài FPT có hơn 3.000 nhân sự cho mảng gia công, chỉ một vài doanh nghiệp phần mềm có đội ngũ nhân lực vượt qua 1.000 người. Quy mô nhân lực nhỏ là cản trở lớn nhất hiện nay đối với doanh nghiệp gia công, vì như vậy khó mà được các dự án lớn và quan trọng để mắt tới.

Đó là lý do tại sao thị trường gia công thế giới hằng năm rất lớn nhưng nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn đành phận đứng ngoài nhìn vào, không thâm nhập được, trong khi các quốc gia khác như Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines… đang đưa ra những chính sách hấp dẫn cho gia công.

Từ gia công đến đi tìm giá trị riêng

Ở giai đoạn khởi động, các doanh nghiệp Việt Nam còn non nớt phải vịn vào gia công như một bước tham gia bộ máy toàn cầu để có nguồn nhân lực tốt hơn và tìm kiếm kinh nghiệm đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Nhưng đứa trẻ 10 năm đến lúc cũng phải lớn, ấp ủ tìm giá trị riêng là giấc mơ không chỉ của riêng một doanh nghiệp.

FPT Software đang nhắm đến một số giải pháp riêng như hệ thống định vị cho ngành giao thông vận tải, Logigear đã thương mại hóa thành công Test Architect (một công nghệ tự động hóa kiểm thử phần mềm), TMA Solutions phát triển các dịch vụ di động từ kinh nghiệm nhiều năm gia công trong mảng viễn thông… Nhiều doanh nghiệp khác cũng tìm về thị trường nội địa như CSC, GCS qua việc tăng cường mảng tư vấn quản trị kinh doanh.

Ông Nguyễn Hữu Lệ, chủ tịch TMA, cho biết công ty chủ yếu vẫn hướng đến thị trường nước ngoài với mảng gia công nhưng dần dần đầu tư cho mảng R&D. Năm 2010, trung tâm giải pháp di động của TMA được thành lập với khoảng 50 người, nay đã tăng lên gấp đôi. Khi đầu tư cho trung tâm R&D này, TMA không đưa ra mục tiêu doanh thu trong vài năm đầu, nhưng sau một năm hoạt động đã đủ khả năng trả lương cho nhân viên.

Theo ông Lệ, điều này cho thấy thị trường vẫn có nhiều cơ hội nhưng nhiều doanh nghiệp chưa biết nắm bắt. “Đầu tư như vậy buộc phải mạo hiểm. Chúng tôi chọn cách liên kết với đối tác nước ngoài để chia sẻ rủi ro vì nếu tự làm, doanh nghiệp Việt Nam vừa không đủ năng lực tài chính dài hạn, vừa rất kém khi tiếp thị sản phẩm ra thị trường thế giới”.

Theo ông Ngô Văn Toàn – phó tổng giám đốc GCS, không phải cứ thành công ở lĩnh vực gia công (cho nước ngoài) là có thể tiếp cận tốt thị trường trong nước hoặc ngược lại. Những nỗ lực trên của từng doanh nghiệp vẫn chỉ là những đốm sáng nhỏ lẻ trong bức tranh toàn cảnh của ngành công nghiệp phần mềm hiện nay.

Lận đận phần mềm trong nước

Thị trường ghi nhận nỗ lực của một số doanh nghiệp phát triển sản phẩm riêng và đã tìm được chỗ đứng nhất định ở thị trường trong nước như Lạc Việt, Diginet, Fast, Misa… Nhiều năm qua, mảng doanh nghiệp này chịu sự sàng lọc lớn trên thị trường và gặp vô vàn khó khăn. Nhiều phần mềm “made in VN” đã bị xóa sổ vì nhiều lý do. Những sản phẩm phát triển được tựu trung là những chương trình đáp ứng cho khối doanh nghiệp nhỏ, chưa có được những sản phẩm quy mô lớn và chuyên ngành.

“Phần mềm trong nước chỉ có thể phát triển khi có sự quan tâm hơn nữa đến vấn đề bản quyền, chính sách quản lý và chế tài xử lý vi phạm” – ông Lê Hải Bình, chủ tịch HĐQT Công ty Mắt Bão, đánh giá. Cả một thập niên, nỗi ám ảnh của nạn vi phạm bản quyền – dù đã được kêu ca, lên án ra rả – vẫn chưa phút nào nguôi. Cộng thêm những chật vật từ chính sách thuế, môi trường ứng dụng khập khiễng, những doanh nghiệp phần mềm nhỏ bé, ra đời muộn, năng lực tài chính kém lại càng chật vật hơn khi cả công nghệ lẫn thị trường thay đổi từng ngày.

Điều này cũng giải thích vì sao các sản phẩm phần mềm trong nước chưa đáp ứng chuẩn mực quản lý quốc tế, thiếu tính ổn định. Các hệ thống ứng dụng CNTT lớn vẫn đang là đất của các sản phẩm nước ngoài.

Khi phần mềm đóng gói không mấy thành công, rất nhiều doanh nghiệp lại tiếp tục thất bại với kỳ vọng phát triển các hệ thống quản lý tổng thể doanh nghiệp (ERP) trong giai đoạn đầu, kể cả những ông lớn như FPT. Song kinh nghiệm xương máu ấy lại đang giúp họ trong việc tái cấu trúc để đi vào lĩnh vực riêng như phần mềm cho ngành y tế, phần mềm SmartBank (đang ứng dụng tại 50% công ty chứng khoán trong nước), hệ thống quản lý thuế thu nhập cá nhân…

CNTT không đơn thuần là công nghệ mà còn là tích hợp quy trình quản trị trong các ngành công nghiệp nhiều năm. Vì vậy, “mua phần mềm suy cho cùng là mua quy trình quản trị hiện đại, mà phần mềm Việt Nam chưa thể đạt đến cấp độ này. Chúng ta cần có thời gian để có kinh nghiệm chuyên sâu mới hi vọng ghi tên cho các giải pháp quy mô lớn và đặc thù” – ông Phạm Anh Chiến, tổng giám đốc Công ty phát triển phần mềm FPT (FIS), thừa nhận.

Quy mô ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay

– Có hơn 1.000 doanh nghiệp phần mềm, tăng gần sáu lần so với năm 2000, với tổng số lao động ngành công nghiệp phần mềm là 64.000 người (phân nửa là ở TP.HCM). Một số doanh nghiệp có trên 1.000 lao động.

– Tổng doanh thu ngành công nghiệp phần mềm năm 2009 là 850 triệu USD (tăng trưởng trung bình 25-35%/năm).

– Cả nước hiện có bảy khu công nghiệp phần mềm tập trung đang hoạt động với tổng quỹ đất gần 738.000m2, trong đó có 499 doanh nghiệp CNTT gồm 279 doanh nghiệp trong nước và 220 doanh nghiệp nước ngoài. – (Theo Sách trắng CNTT 2010)

* Phát triển công nghiệp phần mềm vẫn có thể xem là một lợi thế so sánh của VN trên thị trường lao động thế giới, nhờ nguồn dân số trẻ rất lớn. Nếu được đào tạo và sử dụng tốt, tôi tin một kỹ sư phần mềm VN không thua kém gì kỹ sư các nước. Trên điều kiện mạng viễn thông phát triển, toàn cầu hóa, giá trị gia tăng của nhân lực ngành công nghiệp phần mềm lại càng lớn. Tuy nhiên từ tiềm năng có thể biến thành khả năng hay không còn là một câu hỏi.

Đòi hỏi lớn nhất là đột phá trong đào tạo để thực hiện có được 1 triệu kỹ sư CNTT vào năm 2020. Cần nhất là cải thiện chất lượng nguồn nhân lực thì bức tranh ngành công nghiệp phần mềm mới có thể khác, mới đủ nguồn lực nâng tỉ lệ xuất khẩu lên 50% (tức 10 tỉ USD) và VN mới trở thành một nước mạnh về CNTT trên thế giới. Đây là một thách thức rất lớn. – MAI LIÊM TRỰC (Nguyên thứ trưởng Bộ Bưu chính – viễn thông)

Theo: (TTCT/TTO)

Bài liên quan

Học ngành khoa học máy tính, ra trường làm gì?

(Hiếu học) Chương trình đào tạo cử nhân & kỹ sư ngành Khoa học máy tính dựa trên chương trình khung của Bộ Giáo dục Đào tạo nhưng mỗi trường đào tạo với mục đích có chút ít khác nhau. 

Cùng chuyên mục