Thương mại điện tử: Chữ ký số

Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2011-2015 (được phê duyệt tại Quyết định 1703/QĐ-TTg) đã xác định đến năm 2015 sẽ có một số tổ chức của Việt Nam được các tổ chức chứng thực chữ ký số có uy tín của nước ngoài thừa nhận.

Thương mại điện tử

– Sử dụng chữ ký số như thế nào?

Năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 26/2007/NĐ-CP về chữ ký số và dịch vụ chứng thực số. Cùng với Luật Giao dịch điện tử năm 2006, nghị định đã tạo ra một môi trường pháp lý cho hoạt động và sự phát triển của dịch vụ chữ ký số – vốn đã được ứng dụng ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, chữ ký số vẫn đang là “cuộc chơi” của số ít doanh nghiệp trong khi tiềm năng của thị trường này vẫn còn rất lớn.

Bộ Thông tin – Truyền thông hồi tháng Tám đã trao giấy phép cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cho Công ty cổ phần Hệ thống Thông tin FPT. Đây là doanh nghiệp thứ năm được phép cung cấp dịch vụ này, cùng với bốn đơn vị trước đó là VNPT, Bkis, Viettel và Nacencomm.

Bên cạnh hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước là Trung tâm Chứng thực chữ ký số quốc gia, sự tham gia của các doanh nghiệp vào việc cung cấp dịch vụ này được xem là cú hích cho thị trường được đánh giá là có nhiều tiềm năng.

Nhu cầu nhiều nhưng giao dịch chưa khởi sắc

Bắt đầu ứng dụng dịch vụ chữ ký số trong các hoạt động nghiệp vụ từ tháng 12 năm ngoái, ngành thuế được xem là một trong những đơn vị đầu tiên tiếp cận với hình thức bảo đảm an toàn thông tin đã trở nên phổ biến ở các nước có nền thương mại điện tử phát triển. Với dịch vụ số này, các doanh nghiệp không phải đến cơ quan thuế để nộp hồ sơ, họ chỉ cần đăng ký qua mạng Internet và sử dụng chữ ký số thay cho con dấu mà vẫn bảo đảm tính pháp lý của giấy tờ.

Bớt thời gian đi lại, không phải chen chúc xếp hàng tại cơ quan thuế vào những ngày cuối tháng, một số doanh nghiệp cho biết họ khá hào hứng đón nhận dịch vụ mới mẻ này. Bà Vũ Thục Quyên, kế toán trưởng kiêm Giám đốc Ban Tài chính – Kế toán của Ngân hàng Bảo Việt, cho biết doanh nghiệp mình chỉ mất khoảng nửa ngày để hoàn thành thủ tục nộp các tờ khai thuế vào cuối tháng thay vì phải cử nhân viên túc trực trong vòng 2-3 ngày tại cơ quan thuế như trước đây.

Sự đón nhận dịch vụ chữ ký số cũng đến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vốn đã làm quen với các giao dịch điện tử. Bà Đinh Thúy Anh, đại diện của Công ty TNHH B.Braun Việt Nam, cho biết chữ ký số là dịch vụ mà công ty đã chờ đợi từ lâu bởi nó cho phép tiết kiệm thời gian, nhân lực cũng như những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính liên quan.

Sau ngành thuế, hải quan là một trong những đơn vị triển khai thí điểm dịch vụ chữ ký số cho các tờ khai hải quan điện tử. Lộ trình này sẽ được bắt đầu vào tháng mười năm nay tại Cục Hải quan Hà Nội và sau đó được mở rộng ra các cục hải quan khác trên khắp cả nước.

Tuy nhu cầu về chữ ký số đang tăng lên, nhưng theo thống kê của Bộ Công Thương, tính đến nay mới có khoảng 2.500 doanh nghiệp, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, ứng dụng chữ ký số và chứng thư số khi sử dụng các dịch vụ công trực tuyến mà bộ cung cấp. Đây là con số rất nhỏ so với số lượng các doanh nghiệp trên cả nước.

Các chuyên gia của bộ đánh giá rằng nhiều doanh nghiệp còn thờ ơ với dịch vụ mới mẻ này là do họ chưa hiểu đúng về những tiện ích cũng như vai trò quan trọng mà chữ ký số và các giải pháp chữ ký số mang lại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Ông Nguyễn Trần Hiệu, Phó cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Tổng cục Hải quan, nói rằng doanh nghiệp vẫn có tâm lý e dè khi ứng dụng các giải pháp mới như chữ ký số vào những thủ tục liên quan đến tài chính, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. “Các doanh nghiệp lo ngại về vấn đề bảo mật, tính pháp lý cũng như hạ tầng đường truyền”, ông nói và cho biết thêm khi triển khai dịch vụ này, ngành hải quan đã đẩy mạnh công tác thông tin để các doanh nghiệp hiểu về những tiện ích mà dịch vụ này có thể đem lại.

Bên cạnh đó, theo ông Đào Đình Khả, Giám đốc Trung tâm Chứng thực chữ ký số quốc gia, những khó khăn khi triển khai dịch vụ này là khó tránh khỏi bởi Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng hạ tầng khóa công khai (Public key infrastruc-ture – PKI), hạ tầng nền tảng cho chữ ký số. Đây là hệ thống khá phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề về pháp lý, công nghệ, tổ chức và tài chính. Chính vì thế, việc phát triển dịch vụ này đòi hỏi sự nỗ lực chung của các cơ quan nhà nước lẫn cộng đồng doanh nghiệp.

Thị trường đang rộng mở

Phần lớn chuyên gia có mặt tại cuộc hội thảo về phát triển ứng dụng chữ ký số trong thương mại điện tử do Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Thông tin-Truyền thông tổ chức hồi tháng trước đều nhận định, mặc dù còn gặp khá nhiều trở ngại xuất phát từ tâm lý e ngại của doanh nghiệp ứng dụng cũng như môi trường hoạt động, thị trường này vẫn có nhiều tiềm năng.

Sự xuất hiện của bốn nhà cung cấp dịch vụ chữ ký số công cộng là Bkis, Viettel, Nacencomm và FPT IS chỉ trong một thời gian ngắn sau khi đơn vị đầu tiên được cấp giấy phép là VNPT đã cho thấy sức hấp dẫn của thị trường chứng thực điện tử.

Ông La Thế Hưng, Trưởng phòng An ninh bảo mật của VDC, đơn vị được VNPT ủy quyền thực hiện dịch vụ, cho biết hành lang pháp lý và sự phát triển của các cổng thương mại điện tử, các ứng dụng về tài chính – ngân hàng và dịch vụ hành chính công trên mạng Internet sẽ là những cơ sở giúp chữ ký số phát triển trong thời gian tới.Ông Khả cũng nhận định rằng việc sử dụng chữ ký số trong các giao dịch điện tử là một xu hướng tất yếu trong tương lai gần. Chỉ tính trong khu vực châu Á, từ những năm 2000 luật về chữ ký số và chứng thực điện tử đã được ban hành tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Malaysia.

Và những rào cản hiện hữu

Mặc dù vậy, theo ông Nguyễn Thanh Hưng, Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin, Bộ Công thương, vẫn còn nhiều rào cản trong quá trình ứng dụng chữ ký số ở Việt Nam. Cụ thể, Bộ Công thương hiện đã tích hợp chữ ký số vào thư điện tử (e-mail), nhưng với những giao dịch không quan trọng thì không cần thiết phải bảo mật bởi chữ ký số, còn đối với những văn bản quan trọng thì quy định của luật lại không cho phép sao chép và lưu trữ ở dạng dữ liệu số.

Ở góc độ nhà cung cấp dịch vụ, ông Hoàng Quốc Khánh, Giám đốc Nacencomm, cho rằng cơ sở pháp lý cho việc ứng dụng và phát triển chữ ký số hiện tại đã khá đầy đủ nhưng các chính sách khuyến khích còn chưa cụ thể. Ngoài ra, hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam mới ở giai đoạn ban đầu, vẫn chưa có nhiều hợp đồng, giao dịch được ký kết, thực hiện, thanh toán… trên môi trường điện tử.

Bên cạnh đó, thói quen cũ về mua bán thực tế và mối e ngại của người tiêu dùng đối với giao dịch trực tuyến còn lớn cũng góp phần tạo nên những lực cản.Một khó khăn khác là các đơn vị cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng của Việt Nam mới chỉ được thừa nhận ở trong nước và họ còn một quãng đường dài để được thừa nhận ở thị trường quốc tế. Và điều này đòi hỏi sự hợp tác và hợp lực giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong quá trình đàm phán với các tổ chức chứng nhận của quốc tế.

Đây là một mục tiêu được đánh giá là khó thực hiện. Nghị định 26 cũng quy định để các quốc gia công nhận chữ ký số lẫn nhau thì cần phải có công ước về vấn đề này. Hiện Việt Nam chưa ký công ước với nước nào và trước mắt, có thể sẽ tiến hành ký kết với các nước trong khu vực châu Á.

Chữ ký số được biết đến như một công nghệ xác thực, đảm bảo an ninh, an toàn cho giao dịch trên môi trường Internet. Chữ ký số sẽ giải quyết vấn đề toàn vẹn dữ liệu và là bằng chứng chống sự chối bỏ trách nhiệm trên nội dung đã ký, giúp cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân yên tâm với các giao dịch điện tử của mình trong môi trường Internet.

Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2011-2015 (được phê duyệt tại Quyết định 1703/QĐ-TTg) đã xác định đến năm 2015 sẽ có một số tổ chức của Việt Nam được các tổ chức chứng thực chữ ký số có uy tín của nước ngoài thừa nhận.

Việc được các tổ chức quốc tế công nhận có ba cấp độ: chấp nhận toàn diện, chấp nhận chọn lọc và chỉ chấp nhận trong một số giao dịch cụ thể.

** BKAV cung cấp đầy đủ các loại Chữ ký số phục vụ kê khai thuế qua mạng, giao dịch ngân hàng, chứng khoán, hải quan điện tử, ký và mã hóa email, văn bản…

Đây là lần đầu tiên chữ ký số chính thức được bán rộng rãi. Trên thực tế, có 5 nhà cung cấp dịch vụ Chứng thực chữ kí số đã được cấp phép nhưng BKAV là doanh nghiệp đầu tiên đưa đầy đủ các dịch vụ vào hoạt động.

Tại Việt Nam, chữ ký số mới chỉ sử dụng cho kê khai thuế qua mạng, chưa được sử dụng nhiều trong các hoạt động khác. Nguyên nhân là bởi lãnh đạo các doanh nghiệp còn băn khoăc về tính phân cấp trách nhiệm khi ký bằng chữ ký số. Ví dụ, khi lập một tờ khai thuế, thường mỗi bản kê khai phải có chữ ký của người lập biểu, kế toán viên, kế toán trưởng, rồi mới đến lãnh đạo doanh nghiệp. Nếu sử dụng chữ ký số, chỉ có lãnh đạo doanh nghiệp chịu trách nhiệm ký, điều này khiến các doanh nghiệp không yên tâm.

Về điều này ông Ngô Tuấn Anh, Giám đốc Bkav Telecom, cho biết“Bkav đã giải quyết được hạn chế về tính phân cấp trách nhiệm bằng Bộ công cụ BkavCA PlugIn, cho phép việc ký số được thực hiện với từng vị trí trách nhiệm trong doanh nghiệp, thay vì chỉ duy nhất lãnh đạo chịu trách nhiệm ký. Với BkavCA PlugIn, người sử dụng có thể ký được nhiều file đồng thời theo lô”.

Để có Chữ ký số, khách hàng chỉ cần truy cập website bkavca.vn hoặc gọi điện thoại đến nhà cung cấp dịch vụ để đăng ký. “Mọi thủ tục còn lại như nhận hồ sơ và trao Chữ ký số sẽ được Bkav chịu trách nhiệm thực hiện tại địa điểm của khách hàng. Đây là hình thức cung cấp dịch vụ chữ ký số duy nhất mà người dân và doanh nghiệp được phục vụ tận nơi mà không phải trả thêm phí, thay vì phải trực tiếp đến các điểm giao dịch của nhà cung cấp”, ông Ngô Tuấn Anh khẳng định.

*** Áp dụng chữ ký số trong hoạt động chứng khoán

Ngày 21/9, tại Hà Nội, Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước (SSC) đã phối hợp với Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) tổ chức Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác về việc triển khai áp dụng chữ ký số cho các giao dịch điện tử trong hoạt động chứng khoán.

Theo đó, hai bên đã nhất trí hợp tác lâu dài trong các hoạt động thiết lập, cung cấp, sử dụng hạ tầng chứng thực chữ ký số công cộng, thúc đẩy ứng dụng chữ ký số trong các giao dịch điện tử của ngành chứng khoán.

Qua đây, tập đoàn VNPT sẽ tư vấn kỹ thuật, tư vấn công nghệ về tích hợp chữ ký số vào ứng dụng, xử lý các ảnh hưởng của việc cung cấp dịch vụ chữ ký số công cộng tới các hoạt động của giao dịch chứng khoán điện tử…

VNPT và SSC sẽ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo qui định của pháp luật về chữ ký số. Hai bên còn phối hợp cùng nhau trong các hoạt động truyền thông, đào tạo nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tác dụng của chữ ký số, hỗ trợ cung cấp chứng thực số cho người tham gia sử dụng các dịch vụ giao dịch chứng khoán điện tử.

Chương trình hợp tác được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn đầu là áp dụng đối với các giao dịch giữa SSC tới các công ty chứng khoán, các công ty đại chúng. Giai đoạn 2 sẽ triển khai trong các giao dịch của các nhà đầu tư trong lĩnh vực chứng khoán.

Với lợi ích thiết thực mà dịch vụ chữ ký số công cộng mang lại, các hoạt động giao dịch giữa SSC với các sàn chứng khoán, các nhà đầu tư với sàn chứng khoán và đặc biệt là các nhà đầu tư với nhau, sẽ có nhiều thuận lợi.

Chu Kỳ tổng hợp (hieuhoc_hieuhoc.com)

Cùng chuyên mục