Đào tạo đại học: Nên thiên về ứng dụng và phục vụ xã hội

Đại học Việt Nam không nên đầu tư quá nhiều vào đào tạo khoa học cơ bản và nghiên cứu cơ bản. Cái chính là đào tạo theo hướng ứng dụng triển khai phục vụ xã hội, kể cả trong khoa học xã hội.

Tại sao các đại học ở khu vực Bắc Mỹ và Nhật Bản, Hàn Quốc phát triển mạnh? Câu trả lời là vì họ đề cao tính thực dụng và hiệu quả của đại học.

Trường đại học khoa học tự nhiên Tokyo, một trong những trường được đánh giá cao nhất châu Á.

Đành rằng đại học là dạy người, nhưng người học đại học ra phải sống được với nghề được đào tạo. Đại học Việt Nam không nên đầu tư quá nhiều vào đào tạo khoa học cơ bản và nghiên cứu cơ bản. Đào tạo khoa học cơ bản để cho ra các nhà nghiên cứu, các giảng sư là điều cần thiết, nhưng ít thôi không cần đến hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí nếu cần thì gửi đi học ở những nước có nền học thuật cao truyền thống như Nga, Pháp. Còn cái chính là đào tạo theo hướng ứng dụng triển khai phục vụ xã hội, kể cả trong khoa học xã hội.

Từ thời kỳ Minh Trị Duy Tân cho đến ngày hôm nay, người Nhật họ nhất quán rằng hãy đi tìm cái hay cái tốt của người khác đã có sẵn mang về cải tiến, ứng dụng vào bối cảnh Nhật Bản, chính vì thế mà họ tạo ra các sản phẩm hàng đầu thế giới. Chúng ta hãy xem một trong năm điều thề nguyện do Thiên Hoàng Minh Trị công bố tháng 4.1868 cho quốc dân làm cương lĩnh cho việc xây dựng một nước có ghi rõ: “Phải thu thập kiến thức, kỹ thuật trên thế giới để chấn hưng Hoàng triều”.

Chúng ta đi sau họ quá xa, chắc khó có được các phát minh sáng chế đột phá, thêm nữa các phát minh sáng chế có tính cách mạng trong lực lượng sản xuất, nhân loại đã giải quyết xong về cơ bản vào thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20 rồi. Bây giờ nếu có thì cần đến những cái đầu lớn và những thiết bị rất đắt tiền. Trong mấy năm gần đây, mọi người cứ nghe râm ran rằng những phát minh sáng chế ở TP.HCM trong thời gian qua được gọi là mới như nano, tế bào gốc, con chip, năng lượng mới… thì thế giới đã làm trước đó cả 5 – 7 năm. Ngay sau khi GS toán học Ngô Bảo Châu đoạt giải thưởng Fields, ngay lập tức Chính phủ quyết định đầu tư 650 tỉ đồng thành lập viện Toán cao cấp. Nhiều người cho rằng điều đó là không cần thiết, giá như số tiền đó đầu tư vào những khoa học mang tính ứng dụng thì sẽ có hiệu quả hơn. Cũng có người nói không biết sẽ là phúc hay là hoạ nếu sang năm lại có một nhà khoa học Việt Nam nào đó nhận được giải thưởng quốc tế về hoá học hay vật lý! Những viện nghiên cứu cao cấp với vốn đầu tư hàng ngàn tỉ đồng này sẽ mang lại điều gì cho xã hội? Đành rằng nghiên cứu nào cũng tốt, nhưng với một nước nghèo, như vậy có xa xỉ quá không?

Đầu tư cho khoa học không phải là sự ngẫu hứng. Khoa học ứng dụng không chỉ diễn ra trong khoa học tự nhiên hay kỹ thuật mà cả trong khoa học xã hội. Trong khi người ta bàn đến những lý thuyết mới và những cách tiếp cận mới đi thẳng vào cuộc sống để làm thay đổi xã hội, thì chúng ta vẫn còn loay hoay với những lý thuyết được cho là vĩnh cửu duy nhất đúng, do vậy mà các nhà khoa học xã hội của ta không sao đối thoại được với bên ngoài vì không cùng kênh. Khi hiểu được khoa học ứng dụng là điều cần thiết cho các nước nghèo, đi sau thì khi đó người làm quản lý sẽ biết quy mô và tỷ trọng đào tạo giữa khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng như thế nào là vừa mà, không rơi vào tình trạng cứ mở ra để cho có người học mà không quan tâm rằng họ có kiếm tiền để sống được với những kiến thức đó không. Nhận thức tầm quan trọng của khoa học ứng dụng sẽ biết đầu tư nguồn lực (tiền bạc, thời gian, chất xám, sức mạnh tổ chức và cả các giá trị tinh thần khác) vào đâu thì hợp lý, không phung phí, không phô trương nhưng cũng không keo kiệt.

Giáo dục và nghiên cứu đại học hướng đến phục vụ cộng đồng là một chức năng, sứ mệnh và nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của đại học. Sẽ không có gì sai nếu nói đại học đào tạo ra sinh viên là để cho xã hội sử dụng, như thế là đã hoàn thành sứ mệnh phục vụ xã hội. Nhưng sứ mệnh đại học không chỉ có thế. Các nhà khoa học và cả sinh viên phải tham gia vào việc giải quyết những vấn đề nóng bỏng của xã hội với nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Thực sự thì đại học của chúng ta dường như đang đứng bên ngoài, bên cạnh các vấn đề xã hội, tham gia quá yếu ớt và kém cỏi vào việc xây dựng chính sách và giải quyết các vấn đề nóng của xã hội. Thử hỏi đã có bao nhiêu ý kiến của các nhà nghiên cứu thuộc đại học Quốc gia được chấp nhận đưa vào hoạch định, điều chỉnh chính sách? Có bao nhiêu ý kiến phản biện chính thức trước một sự kiện xã hội bất thường? Đành rằng lỗi này có từ phía cơ quan công quyền, nhưng một thực tế không chối cãi là khoảng cách giữa đại học và xã hội quá xa, khoảng cách giữa nhà khoa học với xã hội còn xa hơn nữa.

Hàng năm, bộ Khoa học và công nghệ thống kê xem có bao nhiêu bài viết đăng trên các tạp chí quốc tế có ISI để chứng minh đẳng cấp đại học và đẳng cấp giáo sư, điều này tốt thôi, nhưng đã khi nào bộ thống kê xem trước những vấn đề nóng của xã hội như môi trường, giao thông, đất đai, tiêu cực xã hội, tham nhũng, như vụ thuỷ điện A Vương, Sông Tranh 2, vụ Tiên Lãng Hải Phòng, vụ các tập đoàn kinh tế nhà nước tàn phá tài sản quốc gia, vụ đường lưỡi bò… có bao nhiêu nhà khoa học của quốc gia lên tiếng góp ý nhằm giải quyết vấn đề từ góc độ khoa học trên công luận, trên diễn đàn, trên truyền thông đại chúng? Giá trị khoa học của một bài báo đăng ở tạp chí khoa học A, B nào đó (mà ngày nay việc đó không phải quá khó) và một ý kiến, một giải pháp cụ thể được công khai trước công luận, được công luận thừa nhận, cái nào thực chất hơn cái nào?

Thực sự niềm tin của nhân dân vào hệ thống giáo dục Việt Nam từ tiểu học đến đại học đang giảm sút nghiêm trọng, nhân dân cần một cuộc cách mạng quyết liệt, mạnh mẽ và triệt để, mọi cải cách nửa vời chỉ tốn kém thời gian và tiền bạc. Đại học Việt Nam tụt hậu sau các nước trong khu vực và khoảng cách ngày càng cách biệt theo từng năm.

Theo: TS Nguyễn Minh Hoà (Khoa giáo/SGTT)

Bài liên quan

Thực lực khoa học Việt Nam: hãy thực tế đi!

(hieuhoc_hieuhoc.com) Thực lực khoa học Việt Nam dù ở vị trí nào cũng không phải là điều quan trọng, chẳng ai ngạc nhiên về vị trí rất khiêm tốn của các ngành khoa học – công nghệ Việt Nam so với thế giới. Điều mà nhiều người “thất vọng” chính là thực lực khoa học không đánh giá qua thực tế mà lại chạy theo con số thống kê của các “báo cáo”, chỉ nhăm nhe xem “công trình được công bố” có nhiêu… nhiêu “cái” so với thế giới.     

Bày vẻ chi thêm học thuật này học thuật nọ?

(hieuhoc_hieuhoc.com) Thực tế trong học thuật chính là cách thiết thực nhất để triết lý giáo dục đến với khoa học chứ không phải chờ đợi và ngợi ca tự do học thuật này, tự do học thuật nọ. Chờ đến khi tìm ra được sự thật khoa học thì biết đến bao giờ?

Ngộ nhận giữa bằng cấp và thành công.

(hieuhoc_hieuhoc.com) Những người không bằng cấp vẫn có thể thành công, những người không bằng cấp nhưng có thu nhập cao ngày càng nhiều. Tuy nhiên, giữa sự thành tựu học vấn và sự thành công đo bằng giá trị của đồng tiền có sự khác biệt dù cả hai đều phải “học” nếu muốn thành công. 

Cùng chuyên mục